Cây bơ là loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao được bà con nhiều tỉnh khu vực tây nguyên trồng phổ biến. Tuy nhiên những năm gần đây cây bơ bị nhiễm nhiều loại bệnh khác nhau như bệnh đốm lá, ghẻ trái, thối trái, thán thư, thối rễ, hẽo rũ… một trong những bệnh nguy hiểm khó kiểm soát đó là bệnh héo rũ, khô chết cành, chết thân ngọn phía ngoài tán. Sau đây chúng tôi phân tích nguyên nhân gây bệnh, đặc điểm phát sinh, triệu chứng bệnh và giải pháp phòng trị bệnh héo rũ, chết xanh cành trên cây bơ.
Nguyên nhân gây bệnh héo xanh, héo rũ, héo khô cành bơ
Bệnh héo rũ, héo xanh, chết thân ngọn cành trên cây bơ có triệu chứng ban đầu gần giống với bệnh do vi khuẩn nên rất dễ gây nhầm lẫn. Thực tế Trung tâm phát triển nông nghiệp công nghệ cao Nanotech đã lấy mẫu bệnh tại Đắk Lắk và Đắk Nông cho thấy đây là bệnh do Nấm gây ra.
Bệnh héo rũ chết thân ngọn cành trên cây bơ do chủng nấm Verticillium albo atrum gây ra (chủng nấm Verticillium có 5 loài tuy nhiên bệnh héo rũ cây thường do chủng Verticillium albo atrum gây ra).
Sâu cuốn lá
(Gracilaria percicae Busk): bướm thường đẻ trứng trên lá mới ra, trứng nở thành sâu và lớn dần lên theo lá, nhưng thông thường nhất là sâu nhả tơ cuốn lá lại để làm tổ. Sâu dài khoảng 10mm, xanh và có những lằn ngang không rõ rệt. Trưởng thành, sâu làm nhộng trong các tổ lá, nằm yên 5-7 ngày rồi vũ hóa.
Dùng các loại thuốc trừ sâu nội hấp để phun diệt trừ. Nếu có điều kiện, trước khi phun thuốc, nên gỡ bỏ các tổ lá do sâu cuốn lại để tăng thêm hiệu lực của thuốc.
Sâu cắn lá
Có rất nhiều loài, có hai loài đã được định danh là Seirarctia echo và Feltia subterrania F. Sâu ăn trụi lá làm chết cây con và làm giảm sức tăng trưởng cây lớn. Có thể tìm thấy sâu trên lá, trên cành hoặc vỏ thân cây. Ban ngày, sâu ẩn núp dưới gốc cây, đêm đến bò ra phá hại.
Rầy bông (Pseudococcus citri Risse)
Rầy thường xuất hiện vào mùa mưa, chích hút nhựa lá và đọt non, quả non làm cây giảm sức tăng trưởng.
Bệnh thối rễ
do nấm Phytophthora cinnamoni gây ra, ở những chân đất có thuỷ cấp cao, nấm xâm nhập làm hư rễ chính (rễ cọc), sau đó nấm lan tràn phá huỷ cả bộ rễ làm cây chết rụi. Cây bị bệnh có tán lá xơ xác, lá đổi sang mầu xanh nhạt rồi rụng. Cành chết dần từ ngọn xuống thân chính. Biện pháp phòng trừ:
- Chọn giống ghép và gốc ghép chống chịu bệnh. Không dùng hạt giống bị nhiễm bệnh và vườn ươm giống phải tuân thủ các biện pháp phòng chống bệnh phát sinh và lan tràn.
- Trồng bơ trên các loại đất có kết cấu tơi xốp, tầng đất canh tác đủ sâu, rút nước nhanh khi mưa.
- Tuyệt đối không dùng nước từ những vườn bơ bị bệnh để tưới.
- Phải tẩy uế nông cụ kỹ càng.
- Phát hiện kịp thời những vết thối trên thân, cạo sạch và quét sulfate đồng – vôi đặc. Khi cây chết vì bệnh, nên đào và huỷ bỏ để bệnh không lan tràn.
Bệnh đốm lá (Cerocospora purpurea)
Bệnh hại lá và trái, nấm bệnh xuất hiện rải rác trên lá có hình dạng và kích thước gần giống nhau, hình có góc cạnh hoặc hơi tròn, mầu nâu. Những đốm này cũng có thể liên kết lại với nhau thành những mảng. Trên trái bệnh tạo nên những mụt lồi cỡ 5mm, có mầu nâu nhạt đến nâu đậm. Trái bị bệnh mất giá trị. Bệnh tồn tại trên lá già để phát tán khi có điều kiện thích hợp.
Bệnh khô cành (Colletotrichum cloeosporiodes)
Nấm xâm nhập vào trên cành thường làm cành khô chết. Trên trái đã già, gần chín, nấm thường xâm nhập vào những chỗ do trái cọ sát hoặc bị thương tích hoặc do công trùng chích hút, ăn vỏ quả, làm cho trái bị nhũn (thường là ở phần cuối trái).
Bệnh héo rũ (Verticillium albo – atrum)
cây bị nhiễm nấm thường đột nhiên bị héo lá trên một phần cây hoặc khắp cây. Lá bị chết rất nhanh, đổi thành vàng nhưng lá khó rụng. Nếu lột vỏ của cành hoặc rễ cây đã chết sẽ thấy những đường sọc mầu nâu ở phần tiếp giáp vỏ và gỗ. Sau thời gian vài tháng, mầm non phát sinh trở lại trên những nhánh chưa chết và trong vòng một hoặc hai năm, cây sẽ sống trở lại bình thường và không còn triệu chứng gì cả. Nấm tồn tại trong đất và gây bệnh cho nhiều loại thực vật ở bất cứ tuổi nào. Cây bệnh có thể chết luôn hoặc sống trở lại, đối với những cây bị bệnh một phần thì phần bệnh không thể cho trái trong vòng một hoặc hai năm. Thường áp dụng các biện pháp phòng trừ như sau:
- Cắt xén kỹ khi cây vừa có triệu chứng bệnh, sau khi cây bị bệnh phục hồi, cắt bỏ những nhánh nhỏ, chết.
- Không dùng cành tháp của những cây đã bị bệnh, nên dùng gốc ghép là những giống thuộc chủng Mexico.
- Không nên xen canh hoặc luân canh bơ với các cây họ cà,…
- Không trồng cây trên đất kém thông thoáng, ẩm thấp và úng thuỷ.
- Dùng các thuốc hoá học phù hợp.